MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Là một trong những bộ môn nghệ thuật với đặc thù riêng, môn Mỹ thuật trong các nhà trường được đánh giá là môn nghệ thuật nhằm giúp phát triển khả năng sáng tạo và nâng cao con mắt thẩm mĩ của học sinh. Mỹ thuật giúp học sinh được làm quen với những kiến thức phong phú nhằm phát huy khả năng sáng tạo, có vai trò quan trọng trong công cuộc giáo dục toàn diện cho học sinh ở các cấp học. Đặc biệt hơn, với cấp Tiểu học, sự hình thành tư duy, sáng tạo của học sinh mang tính chất rất riêng, nó không chỉ ảnh hưởng đến sự phát triển về tri thức mà còn ảnh hưởng đến cuộc sống của mỗi cá nhân đó trong công cuộc giáo dục tư cách và dạy học sinh phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mĩ.
Trong chương trình đổi mới giáo dục, Mỹ thuật là bộ môn cần phải đổi mới và không ngừng sáng tạo. Với vai trò của người giáo viên là có trách nhiệm tạo ra một môi trường giáo dục an toàn – tự tin. Giáo viên là nhà thiết kế sáng tạo và linh hoạt cho các hoạt động dạy, vì họ chính là người điều khiển cách thức học tập biết lựa chọn và bao quát được toàn bộ hoạt động giáo dục dựa trên những kiến thức nền tảng cũng như những gì phát sinh trong quá trình học. Giáo viên phải là một “giám đốc dự án”, một “doanh nhân” và chính là một “nhạc trưởng” trong các quá trình học tập (Theo tài liệu dạy học Mỹ thuật dành cho giáo viên tiểu học Dự án Seaps – Vai trò của giáo viên):
Lấy học sinh làm trung tâm; Kích thích sự tương tác, tư duy sáng tạo và phát triển nhận thức giúp học sinh có được các khả năng:
+ Biểu đạt và giao tiếp thông qua hình ảnh;
+ Khám phá và hiểu được văn hóa thông qua nghệ thuật thị giác;
+ Hình thành các kỹ năng sống trong lĩnh vực Mỹ thuật;
+ Yêu thích cái đẹp và biết vận dụng vào cuộc sống sinh hoạt, học tập hàng ngày.
Với lòng nhiệt huyết của một giáo viên trẻ, tôi luôn trăn trở phải làm thế nào để môn học nghệ thuật này đến được với học sinh thân yêu một cách thiết thực và ý nghĩa nhất. Tôi đã không ngừng học hỏi, trau dồi, nghiên cứu, vận dụng và áp dụng nhiều phương pháp và bước đầu đã thành công. Đa số học sinh được trải nghiệm, biết vận dụng theo quy trình, phát huy được tính sáng tạo thông qua sự trải nghiệm, nhiều tác phẩm thể hiện cảm xúc tốt, có giá trị nghệ thuật cao. Từ những lí do trên, tôi lựa chọn đề tài “Một số biện pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo nhằm phát triển năng lực cho học sinh lớp 5 ở trường Tiểu học Mai Động” làm SKKN, nhằm giúp cho học sinh được phát huy tối đa khả năng sáng tạo của bản thân góp phần đưa môn Mỹ thuật ngày càng phát triển, hội nhập chung với sự phát triển của Thế giới.
2. Mục đích nghiên cứu:
Đề xuất một số biện pháp giúp học sinh nắm chắc hoạt động trải nghiệm sáng tạo nhằm phát huy năng lực của học sinh lớp 5 trong môn Mỹ thuật ở trường Tiểu học Mai Động góp phần đưa môn Mỹ thuật trong nhà trường ngày càng phát triển hơn.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
3.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của một số biện pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo nhằm phát triển năng lực cho học sinh lớp 5 trong môn Mỹ thuật ở trường Tiểu học Mai Động.
3.2. Khảo sát thực trạng học sinh lớp 5 ở trường Tiểu học Mai Động về hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong môn Mỹ thuật.
3.3. Đề xuất một số biện pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo nhằm phát triển năng lực cho học sinh lớp 5 trong môn Mỹ thuật ở trường Tiểu học Mai Động.
4. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu một số biện pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo nhằm phát triển năng lực cho học sinh lớp 5 trong môn Mỹ thuật ở trường Tiểu học Mai Động.
5. Phương pháp nghiên cứu:
5.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu tài liệu: Nghiên cứu giáo trình, các tài liệu lí luận Mỹ thuật, bài viết đăng trên một số tạp chí văn hóa nghệ thuật, giáo dục thời đại, trang web…
5.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
5.2.1. Phương pháp quan sát.
5.2.2. Phương pháp liên hệ.
5.2.3. Phương pháp gợi mở, vấn đáp.
5.2.4. Phương pháp trực quan.
5.2.5. Phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp.
6. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu một số biện pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo nhằm phát triển năng lực cho học sinh lớp 5 trong môn Mỹ thuật ở trường Tiểu học Mai Động.
7. Đối tượng thực nghiệm:
Đề tài tập trung thực nghiệm nhóm học sinh khối lớp 5, cụ thể: lớp 5A5, 5A6, 5A7 tại trường tiểu học Mai Động về hoạt động trải nghiệm sáng tạo và kết quả đạt được sau khi học sinh được thực nghiệm phương pháp trên.
Các lớp đối chứng với nhóm lớp thực nghiệm: 5A1, 5A2, 5A3, 5A4 ở trường Tiểu học Mai Động.
8. Thời gian nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu trong một năm, thời gian bắt đầu từ tháng 9 năm 2017 đến tháng 5 năm 2018.
NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH LỚP 5 TRONG MÔN MỸ THUẬT Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC MAI ĐỘNG.
1.1. Khái quát về một số khái niệm.
1.1.1. Trải nghiệm sáng tạo:
Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giáo dục, trong đó, dưới sự hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục, từng cá nhân học sinh được tham gia trực tiếp vào các hoạt động thực tiễn khác nhau của đời sống gia đình, nhà trường cũng như ngoài xã hội với tư cách là chủ thể của hoạt động, qua đó phát triển năng lực thực tiễn, phẩm chất nhân cách và phát huy tiềm năng sáng tạo của cá nhân mình. Trải nghiệm sáng tạo là hoạt động được coi trọng trong từng môn học; đồng thời trong kế hoạch giáo dục cũng bố trí các hoạt động trải nghiệm sáng tạo riêng, mỗi hoạt động này mang tính tổng hợp của nhiều lĩnh vực giáo dục, kiến thức, kỹ năng khác nhau.
Bằng hoạt động trải nghiệm của bản thân, mỗi học sinh vừa là người tham gia, vừa là người kiến thiết và tổ chức các hoạt động cho chính mình nên học sinh không những biết cách tích cực hoá bản thân, khám phá bản thân, điều chỉnh bản thân mà còn biết cách tổ chức hoạt động, tổ chức cuộc sống và biết làm việc có kế hoạch, có trách nhiệm” (Dự thảo Nội dung CTGDPT mới).
1.1.2. Sáng tạo trong Mỹ thuật:
Sáng tạo Mỹ thuật là sự kết hợp của ba hình thức: vẽ qua “quan sát”, vẽ theo “trí nhớ”, vẽ từ sự “tưởng tượng”. Các hình thức này luôn đan xen và hòa hợp với nhau trong các quá trình sáng tạo. Để bắt đầu mỗi hoạt động dạy học Mỹ thuật, thông thường sẽ được khởi đầu bằng một trong ba hình thức nói trên.
Phương pháp của các quy trình Mỹ thuật có sự liên kết các hoạt động theo tiến trình từng bước để bài tập luôn liên kết với nhau. Kết thúc bài tập này là khởi đầu của một bài tập tiếp theo.
1.2. Cơ sở lý luận của hoạt động trải nghiệm sáng tạo theo dự án Seaps trong môn Mỹ thuật.
Phương pháp dạy học Mỹ thuật theo dự án của Đan Mạch (Seaps) là giáo dục Mỹ thuật dựa vào 7 thiên hướng trí tuệ (Trí tuệ ngôn ngữ, trí tuệ âm nhạc, trí tuệ logic- toán học, trí tuệ thị giác, trí tuệ vận động, trí tuệ liên kết các cá nhân, và trí tuệ nội tâm) nhằm hình thành và phát triển 5 năng lực (năng lực trải nghiệm, năng lực kỹ năng và kỹ thuật, năng lực biểu đạt, năng lực phân tích và diễn giải, năng lực giao tiếp và đánh giá) của học sinh nên khi áp dụng vào chương trình hiện hành học sinh được giải phóng khỏi khuôn mẫu, các em được học mà chơi, chơi mà học các em thoả sức sáng tạo không bị gò bó, không sợ mình không biết vẽ mà được tự do thể hiện sự sáng tạo. Với 7 quy trình mới, học sinh có thể vẽ biểu cảm, xé dán, nặn tạo hình 2D, 3D làm con rối, tận dụng các vật tìm được để sáng tạo, nghệ thuật sắp đặt, vẽ theo nhạc, hoạt cảnh, kể chuyện sắm vai, biểu diễn hoá thân thành nhân vật,…Vì là bộ môn năng khiếu, khả năng diễn đạt những suy nghĩ, sáng tạo của HS bằng nét vẽ rất khó khăn. Để khơi dậy cho học sinh khả năng trong giờ học, đòi hỏi người giáo viên cần phải thực sự say mê giảng dạy và tạo được cho học sinh sự lôi cuốn, đam mê trong giờ học Mỹ thuật mà cụ thể là việc tạo ra sự “Hứng thú học tập theo chương trình mới ở Tiểu học”.
1.3. Cơ sở thực tiễn của hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong môn Mỹ thuật.
Nội dung học tập Mỹ thuật theo phương pháp mới (Seaps) là sự thể hiện mối quan tâm của học sinh với thế giới thực tế xung quanh. Giáo dục Mỹ thuật cần bám sát các vấn đề của thực tiễn, học sinh áp dụng kiến thức vào giải quyết vấn đề của thực tiễn thay cho việc nhồi nhét thông tin. Đó chính là quá trình giúp học sinh nhận thức, hiểu và vận dụng kiến thức Mỹ thuật vào thực tiễn cuộc sống. Dạy học dựa trên trải nghiệm thực tế luôn mang lại cảm hứng và lôi cuốn học sinh. Dạy học chú trọng đến sự quan tâm của học sinh và nhu cầu lợi ích của xã hội nhằm phát huy cao độ tính tích cực, tự lực, rèn luyện cho học sinh cách làm việc độc lập, phát triển tư duy sáng tạo trong đó giáo viên dẫn dắt học sinh biết: tổ chức tham quan; kể chuyện Mỹ thuật, sắm vai…để chia sẻ những trải nghiệm của họ về chủ đề liên quan…Mỗi hình thức hoạt động trên đều tiềm tàng trong nó những khả năng giáo dục nhất định. Nhờ các hình thức đa dạng phong phú, người dạy cần tận dụng mọi cơ hội để học sinh được tiếp xúc với vật thực, sử dụng các công cụ dạy học hấp dẫn: trình chiếu, video, tranh ảnh… để đưa học sinh tiếp cận với thực tế; khai thác các đề tài vượt ra ngoài giới hạn của môn học nhằm khơi dậy năng lực, sở trường, hứng thú của bản thân để đưa cảm xúc từ thực tế vào tác phẩm thông qua các kênh thông tin của cơ thể như: nghe, nhìn, cảm và bộc lộ.
Chương 2
THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM SÁNG TẠO
CỦA HỌC SINH LỚP 5 TRONG MÔN MỸTHUẬT
Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC MAI ĐỘNG
2.1. Khái quát tình hình chung của học sinh lớp 5 tại trường tiểu học Mai Động.
Là một trường thuộc phía Nam của thành phố với 1823 học sinh, chia làm 35 lớp, trong đó khối lớp 5 có 7 lớp gồm 372 học sinh. Đây là năm thứ ba học sinh được tiếp cận học Mỹ thuật theo phương pháp mới (Seaps) mà đặc thù của chương trình hiện hành là sự chuẩn bị đồ dùng học tập khác hẳn so với sự chuẩn bị đồ dùng học tập của chương trình cũ, rất đa dạng, phong phú với nhiều chất liệu khác nhau như: sỏi, rơm, lá cây, vỏ hộp… tuy nhiên việc tiếp nhận môn học mới khiến học sinh khối lớp 5 rất hào hứng. Trải nghiệm hoạt động theo nhóm được hưởng ứng khá tích cực, đây là điều tương đối thuận lợi cho giáo viên khi tổ chức các tiết dạy. Bên cạnh đó việc bảo quản đồ dùng là vấn đề khá bất cập, hầu hết các em chưa quen với cách bảo quản những đồ dùng học tập đa dạng hay cách giữ gìn sản phẩm để tiết học sau hoàn thành chủ đề còn nhiều vướng mắc, chưa khoa học.
Trong quá trình khảo sát về mảng trải nghiệm sáng tạo, học sinh khối lớp 5 do tôi phụ trách rất tích cực tuy nhiên các em chưa hình dung rõ mình cần phải bắt đầu như thế nào, tiến trình tiếp nối giữa tiết 1, 2, 3 cần tập trung giải quyết những vướng mắc gì để đảm bảo đúng mục tiêu của chủ đề. Biết nhận xét chủ đề và hiểu được cách thực hiện, vận dụng thực tế và đưa chúng vào tác phẩm lại là vấn đề khó mà học sinh của tôi cần phải trải nghiệm nhiều hơn để sáng tạo và phát triển năng lực tốt nhất trong môn học nghệ thuật này.
2.2. Thực trạng về hoạt động trải nghiệm sáng tạo của học sinh lớp 5 tại trường Tiểu học Mai Động.
Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Mỹ thuật, qua quan sát thực tế tôi nhận thấy còn có một số khó khăn trong việc thực hiện áp dụng phương pháp mới (Seaps) vào giảng dạy như sau:
– Về giáo viên: Đây là phương pháp còn mới mẻ, giáo viên chưa được tiếp cận và trải nghiệm nhiều nên vẫn gặp phải một số vướng mắc trong quá trình truyền đạt kiến thức sao cho phù hợp với đặc thù tiết học.
– Về học sinh: Nhiều em chưa nhận thức được tầm quan trọng của môn học, tiếp nhận môn học chưa có sự hứng thú, chưa thực sự say mê. Thao tác kĩ năng thực hành chậm bởi đồ dùng chuẩn bị chưa đầy đủ do đặc thù môn học rất đa dạng. Một số em có ý thức sưu tầm đồ dùng khá nghiêm túc nhưng sau thời gian thực hành không biết cách bảo quản nên đồ dùng bị thất lạc hoặc không còn nguyên trạng như ban đầu… ảnh hưởng đến tiết sau của mỗi chủ đề. Bên cạnh đó diện tích phòng học chưa đủ rộng để các em được thỏa sức sáng tạo, trải nghiệm theo ý thích của mình cũng làm ảnh hưởng nhiều đến kết quả hoàn thành sản phẩm trong mỗi chủ đề.
– Về phụ huynh: Nhiều phụ huynh chưa ủng hộ vì quan niệm của một số bậc phụ huynh cho rằng đây là môn phụ nên thiếu sự quan tâm mua sắm đồ dùng học tập cho học sinh, chưa sát sao trong việc định hướng động viên các em tìm tòi khám phá thiên nhiên để vận dụng vào môn học…
– Về cơ sở vật chất: Nhà trường còn thiếu phòng học chức năng dành riêng cho môn học. Thời khóa biểu sắp xếp 1 tiết/ tuần chưa đảm bảo sự liền mạch về kiến thức theo nội dung của chủ đề.
Tất cả những thực trạng trên đã ảnh hưởng lớn đến chất lượng học tập của học sinh, gây cho các em cảm giác chưa tự tin, khả năng sáng tạo chưa cao khi thực hành. Điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả giảng dạy của giáo viên và chất lượng bộ môn tương đối rõ nét.
2.2.3. Điều tra thăm dò tâm lí học sinh.
Kết quả thăm dò ý kiến và khảo sát mức độ hứng thú, yêu cầu cần đạt bộ môn Mỹthuật lớp 5 sau đây phần nào phản ánh thực trạng vấn đề cần giải quyết.
Bảng 1: Kết quả khảo sát mức độ tích cực hoạt động và mức độ sáng tạo trước khi thực hiện sáng kiến.
Lớp
Sĩ số
HS tích cực hoạt động
HS chưa tích cực hoạt động
HS sáng tạo
HS chưa
sáng tạo
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
5A5
51
15
29,4
36
70,4
20
39,2
31
60,7
5A6
49
15
30,6
34
69,3
15
30, 6
34
69,3
5A7
54
18
33,3
36
66,7
18
33,3
36
66,7
Bảng 2: Kết quả đạt được trước khi áp dụng sáng kiến
Lớp
Sĩ số
Kết quả
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
SL
%
SL
%
5A5
51
15
29,4
36
70,4
5A6
49
12
24,4
37
75,5
5A7
54
15
28
39
72
Từ những bất cập của học sinh nêu ở trên, tôi thiết nghĩ bản thân mình không ngừng trau dồi chuyên môn, luôn đổi mới phương pháp dạy học, áp dụng linh hoạt mọi biện pháp mang tính khoa học để đưa chất lượng học môn Mỹthuật thành công hơn nữa trong những năm tới đây, góp phần phát huy tính sáng tạo, tạo tiền đề cho tương lai của đất nước ngày càng phát triển bắt kịp với xu thế phát triển của Thế giới.
Chương 3
MỘT SỐ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM SÁNG TẠO NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CHO HỌC SINH LỚP 5 TRONG MÔN MỸTHUẬT Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC MAI ĐỘNG
Từ những bất cập trên, tôi đã suy nghĩ làm thế nào để giúp học sinh khối lớp 5 của tôi say mê hoạt động trải nghiệm sáng tạo để phát huy tối đa khả năng vốn có của mình góp phần tạo cho môn học Mỹ thuật ngày càng phát triển hơn.
Tôi đã mạnh dạn áp dụng một số biện pháp sau và có hiệu quả.
3.1. Biện pháp 1. Triển khai một số yếu tố cơ bản giúp học sinh hào hứng tham gia vào quá trình trải nghiệm sáng tạo.
3.1.1. Môi trường học tập
Môi trường học tập là điều kiện quan trọng trong việc phát triển năng lực học sinh. Môi trường học tập an toàn mang lại cảm giác thoải mái cho học sinh về tinh thần. Điều đó thể hiện qua việc bố trí bàn ghế trong lớp; qua việc trang trí trên tường, cách sắp xếp không gian trong lớp học. Tùy theo điều kiện của từng trường mà giáo viên và học sinh có cách thiết kế môi trường học tập khác nhau; đảm bảo sự thoải mái về tinh thần cho học sinh, không căng thẳng, không nặng nề.
Với đặc thù trường nhỏ, diện tích lớp chật hẹp so với số lượng học sinh trung bình là 55 học sinh/ lớp, việc tạo nên một môi trường học tập trong lớp chưa thoải mái. Vì vậy tôi chú trọng sắp xếp đồ dùng học tập cho các em sao cho ngăn nắp gọn gàng, sách vở đồ dùng của môn học được đựng trong cặp nhỏ để trong ngăn bàn. Tạo môi trường thân thiện bằng cách trang trí sản phẩm của học sinh trưng bày tại góc Mỹ thuật của lớp (ảnh phụ lục) mỗi tổ được trưng bày một tuần, có khen thưởng vào cuối tháng. Đây là cách mà học sinh rất thích, tạo được động lực học và hứng thú cho các em thi đua trong tháng, qua đó sản phẩm cũng phong phú hơn nhiều, hiệu quả giờ học ngày càng cao.
Không chỉ dừng lại việc thúc đẩy học tập tại phòng học, tôi luôn cố gắng tạo nên một môi trường học tập gần gũi bằng những câu chuyện gây cười vào đầu giờ có nội dung liên quan đến chủ đề sắp học hoặc một vài câu đố vui có thưởng, một vở kịch ngắn do mình chủ biên, cũng có khi tạo ấn tượng về môi trường học tập chỉ bằng ánh mắt thân thiện, nụ cười yêu thương khi bước vào lớp hoặc bài hát vui nhộn có liên kết với bài học nhằm kích thích cho các em hân hoan, hứng thú trải nghiệm sáng tạo không gây cảm giác mệt mỏi.
3.1.2. Hoạt động học tập phù hợp
Nội dung hoạt động trải nghiệm sáng tạo Mỹthuật rất đa dạng và mang tính tích hợp, tổng hợp kiến thức, kĩ năng của nhiều môn học, nhiều lĩnh vực học tập và giáo dục như: đạo đức, giáo dục trí tuệ, giáo dục kĩ năng sống, giáo dục thẩm mĩ….Điều này giúp cho giáo dục thiết thực hơn, gần gũi với cuộc sống thực tế hơn, đáp ứng được nhu cầu hoạt động của học sinh, giúp các em vận dụng vào trong thực tiễn cuộc sống một cách dễ dàng thuận lợi hơn.
Khi thiết kế các hoạt động học tập Mỹ thuật tôi nghiên cứu dựa trên các mức độ phát triển của học sinh. Ví dụ cùng chủ đề “Trang trí sân khấu và sáng tác câu chuyện’’ tôi dựa theo trình độ nhận thức của các nhóm học sinh khơi dậy khả năng sáng tạo để đưa các quy trình học tập cho phù hợp. Với nhóm đối tượng học sinh không có năng khiếu tôi đưa ra những câu hỏi sát với chủ đề như:
Sân khấu thường có hình gì?
Màu sắc trong sân khấu như thế nào?
Còn đối với HS có năng khiếu thì cần đưa các câu hỏi mang tính tư duy cao để có sự liên hệ thực tế sâu sắc:
Sự sắp xếp các hình ảnh trong sân khấu như thế nào?
Hãy tả lại sân khấu mà em ấn tượng nhất?
Từ cách gợi mở tăng cấp độ nêu trên, tôi đưa kiến thức văn học lồng ghép vào cách gợi mở mô tả (kể) và nêu cảm nhận của mình về nội dung hoặc hình ảnh ấn tượng. Với cách nhận xét về hình học, các tỉ lệ cân đối dựa trên Toán học, tôi hướng các em biết so sánh để vận dụng cách tạo một sân khấu cân đối về hình, cách sắp đặt bố cục hài hòa nhất.
Từ những tích hợp kiến thức các môn học, kết hợp hoạt động học mà chơi, chơi mà học, liên tục thay đổi linh hoạt hình thức dạy học, học sinh nắm bắt nhanh, hiểu sâu vấn đề và sáng tạo không còn là nỗi lo lắng mỗi khi thực hành, kết quả đạt được rất tốt so với các các tiết học trước (ảnh phụ lục).
3.1.3. Sáng tạo – Không ngừng sáng tạo
Trong quá trình thiết kế, tổ chức, đánh giá các hoạt động trải nghiệm sáng tạo, cả giáo viên lẫn học sinh đều có cơ hội thể hiện sự sáng tạo, chủ động, linh hoạt của mình, làm tăng thêm tính hấp dẫn, độc đáo của các hình thức tổ chức hoạt động.
Để khơi nguồn sáng tạo theo sở thích của học sinh, tôi luôn tìm tòi tất cả các nội dung có liên quan đến chủ đề, đưa hình ảnh, video clip sinh động trên Internet (bao gồm một số trang Web sáng tạo của tác giả nước ngoài để mở rộng kiến thức), dùng phần mềm Camtasia cắt ghép, chỉnh sửa ngắn gọn để học sinh quan sát đủ cả về chất và lượng, khơi gợi cho các em niềm say mê từ các tác phẩm độc đáo được tạo tác từ các nguyên liệu phế thải. Bên cạnh đó chú ý cập nhật và triển khai liên tục về các cuộc thi do các ngành tổ chức, tạo động lực cụ thể cho các em bằng các giải thưởng lớn như giải thưởng vẽ tranh chủ đề: “Chiếc ô tô mơ ước” của Honda tổ chức, “Hành trình yêu thương” do Vietnam Airlines tổ chức…. Tiếp cận với các cuộc thi các em rất hứng khởi say mê, liên tục tìm tòi, trao đổi cùng giáo viên, người thân để tham gia trải nghiệm sáng tạo và rất tích cực thi. Thành công đầu tiên là một số học sinh đã đạt giải cao, nền tảng bước đầu của động lực sáng tạo đã được phát huy, có sự lan tỏa lớn đối với nhóm học sinh chưa tích cực (ảnh phụ lục).
Bên cạnh đó tôi tổ chức cho học sinh được tham gia xây dựng kế hoạch và đánh giá bài học (tự đánh giá, đánh giá đồng đẳng), tự liên hệ phần nhiệm vụ đã thực hiện với các mục tiêu của quá trình học tập, tự đánh giá các nỗ lực và sự tiến bộ, phát hiện những điểm cần thay đổi để hoàn thiện hơn từ bài thực hành của các bạn.
Như vậy hoạt động trải nghiệm sáng tạo là một phương thức học hiệu quả, nó giúp hình thành năng lực cho người học cần được tiến hành có tổ chức, có hướng dẫn theo qui trình nhất định của nhà giáo dục mang lại hiệu quả của việc học trải nghiệm sẽ tốt hơn.
3. 2. Biện pháp 2: Lập kế hoạch và tổ chức các tiết dạy hoạt động trải nghiệm sáng tạo theo chủ đề môn Mỹ thuật nhằm phát triển năng lực cho học sinh lớp 5 ở trường tiểu học Mai Động .
3.2.1. Tìm hiểu cấu trúc chương trình và lập kế hoạch.
– Cấu trúc chương trình môn Mỹ thuật lớp 5 gồm có 13 chủ đề, chia thành 35 tiết/ 35 tuần trong đó cả 13 chủ đề đều có thể tổ chức cho HS trải nghiệm và sáng tạo nhưng ở sáng kiến này tôi lựa chọn thiết kế xây dựng 2 chủ đề điển hình về hình thức tổ chức hoạt động trải nghiệm và sáng tạo cho HS ở hai môi trường khác nhau. Đó là:
+ Chủ đề Âm nhạc và sắc màu (3 tiết): GV vận dụng quy trình vẽ theo nhạc và các hoạt động được tổ chức sẽ là:
Hoạt động 1. HS được trải nghiệm nghe, vận động và vẽ các nét theo giai điệu âm nhạc .
Hoạt động 2. HS được thưởng thức, cảm nhận, tưởng tượng các hình ảnh trên bức tranh vẽ theo nhạc.
Hoạt động 3. HS làm các sản phẩm từ bức tranh vẽ theo nhạc.
Hoạt động 4. Trưng bày, giới thiệu, đánh giá sản phẩm.
+ Chủ đề thử nghiệm và sáng tạo với các chất liệu (3 tiết). GV vận dụng quy trình tạo hình 3 chiều, tiếp cận theo chủ đề và các hoạt động được tổ chức sẽ là:
Hoạt động 1. Học sinh trải nghiệm khám phá thiên nhiên: quan sát, trò chuyện về một số chất liệu có trong thiên nhiên và trong cuộc sống; sưu tầm những chất liệu có màu sắc và hình dáng đẹp.
Hoạt động 2. Được cùng nhau tạo các sản phẩm từ nhiều chất liệu.
Hoạt động 3. Trưng bày, giới thiệu và đánh giá sản phẩm.
GV thiết kế hoạt động học tập Mỹ thuật phù hợp với mức độ phát triển của học sinh, phù hợp với điều kiện thực tế ở địa phương, sẽ tạo điều kiện cho học sinh khám phá khả năng biểu đạt bằng nhiều phương tiện khác nhau và thưởng thức niềm vui sáng tạo.
3.2.2. Tổ chức các tiết dạy áp dụng một số quy trình dạy học cho HS hoạt động trải nghiệm sáng tạo nhằm hình thành, phát triển năng lực cho học sinh.
3.2.2.1. Tổ chức tiết dạy áp dụng quy trình vẽ theo nhạc cho HS hoạt động trải nghiệm sáng tạo nhằm hình thành, phát triển năng lực cho học sinh.
Với Chủ đề “Âm nhạc và sắc màu” (3 tiết). Tôi vận dụng quy trình vẽ theo nhạc để tổ chức cho học sinh trải nghiệm và sáng tạo ngay trong không gian lớp học. Để tạo môi trường học tập hứng khởi, cuốn hút học sinh, tôi nghiên cứu kĩ mục tiêu của chủ đề bài học kết hợp với mục tiêu của từng hoạt động đồng thời kết hợp các phương pháp phù hợp khác như: sơ đồ tư duy, quan sát và giải quyết vấn đề, học tập theo chức năng, tích hợp một số bộ môn như kể chuyện, sắm vai…. Cụ thể là:
Hoạt động1. Học sinh trải nghiệm nghe, vận động và vẽ các nét theo giai điệu âm nhạc.
1.1. Mục tiêu: Khuyến khích học sinh tập trung và nghe nhạc; Sử dụng âm nhạc, xúc giác và các giác quan thẩm mỹ; Trải nghiệm âm nhạc và giai điệu tạo cảm xúc; Trải nghiệm mối liên hệ giữa giai điệu, hoạt động cơ thể và hình ảnh; Yêu thích quy trình dạy – học Mỹ thuật hợp tác.
1.2. Cách thực hiện: Giáo viên hướng dẫn học sinh hiểu về phương pháp vẽ theo Âm nhạc và cách vẽ theo Âm nhạc.
Giáo viên chia nhóm ngẫu nhiên.
Giáo viên bật nhạc nhẹ nhàng cho học sinh lắng nghe các giai điệu, hướng dẫn học sinh cách cảm thụ âm nhạc, từ những giai điệu trầm bổng liên tưởng đến những hình ảnh về chủ đề và vẽ ra những đường nét khác nhau.
Học sinh bắt đầu vẽ những nét màu trên giấy theo thứ tự các màu từ nhạt đến đậm (chú ý hạn chế màu đen vì màu này dễ làm cho bức tranh bị xỉn màu). Âm nhạc tăng dần sang tiết tấu nhanh tạo cảm xúc mạnh mẽ cho các học sinh. Các em chuyển động cơ thể và vẽ theo giai điệu của âm nhạc. Hoạt động này kéo dài khoảng 5 đến 7 phút. Thực hiện quy trình này cần linh hoạt và sáng tạo với nhiều chất liệu màu, kích cỡ giấy, âm nhạc theo điều kiện của trường/ địa phương mình. Có thể thay nhạc bằng bài hát hoặc tiết tấu gõ đệm nhẹ nhàng, từ tiết tấu chậm đến nhanh, sôi nổi, mạnh mẽ.
Trong quá trình vẽ tôi hướng dẫn cho học sinh hãy để cho mình một tinh thần thoải mái theo tiếng nhạc, vẽ các nét theo nhạc cũng thật thoải mái, tự nhiên.
Khi kết thúc, học sinh trưng bày và thưởng thức bức tranh mình vừa tạo ra từ khổ giấy lớn (vẽ theo nhóm) hoặc giấy nhỏ (vẽ cá nhân).
1.3. Kết quả: Kết thúc hoạt động 1, học sinh có khả năng nghe nhạc; sử dụng tất cả các giác quan để học tập; Vẽ màu sắc, đường nét và các mảng màu dựa trên nền nhạc; Kết nối Âm nhạc, Hội họa và hoạt động cơ thể; Hợp tác trong suốt quy trình dạy học Mỹ thuật.
Quy trình được thực hiện một cách linh hoạt, sáng tạo khi lựa chọn màu sắc, cỡ giấy và thể loại âm nhạc. Điều quan trọng là giáo viên xây dựng kế hoạch, thực hiện và đánh giá quy trình dạy – học Mỹ thuật tùy thuộc vào khả năng của học sinh, vật liệu sẵn có và tùy vào từng địa phương. Vì vậy, giáo viên có thể tổ chức hoạt động 2 hoặc 3 tùy vào trình độ, thời gian và khả năng học sinh.
Sau khi áp dụng và tổ chức cho học sinh theo hoạt động 1 như trên các em đã hình thành, phát triển được năng lực trải nghiệm.
Hoạt động 2: Học sinh thưởng thức, cảm nhận, tưởng tượng từ bức tranh vẽ theo nhạc.
2.1. Cảm nhận từ tác phẩm vẽ theo nhạc:
2.1.1. Mục tiêu: Khuyến khích học sinh chia sẻ kinh nghiệm từ ý kiến cá nhân; Tập trung, giao tiếp và lắng nghe nhau; Hiểu biết nhiều hơn về màu sắc, đường nét.
2.1.2. Cách thực hiện:
Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát bức tranh và suy nghĩ, đưa ra những nhận xét và chia sẻ cảm nhận về hoạt động vừa thực hiện. Các em tưởng tượng ra những hình ảnh/ đề tài từ bức tranh lớn.
– Giáo viên đưa ra một số câu hỏi gợi ý giúp HS dễ dàng thưởng thức và cảm nhận về màu sắc hơn.
+ Em có cảm nhận như thế nào trong suốt quá trình di chuyển xung quanh bàn và vẽ màu?
+ Em nghĩ như thế nào về bức tranh tập thể? Em thích gì trong bức tranh đó?
+ Em có nghĩ là bức tranh này lộn xộn không? Em có hứng thú với hoạt động vừa thực hiện không?
+ Trong khi quan sát tranh em liên tưởng tới hình ảnh gì?
+ Từ những hình ảnh đó em nghĩ đến những đề tài nào?
– Giáo viên khuyến khích học sinh phản hồi và ghi chép lại ý kiến thành một bản đồ tư duy ở trên bảng.
– Giáo viên có thể tập trung vào màu sắc và lần lượt giới thiệu về một số khái niệm màu như: Sáng tối, tương phản, hòa sắc, nóng lạnh, bổ túc.
2.1.3. Kết quả: Cuối hoạt động này học sinh có khả năng biểu đạt được kinh nghiệm và ý kiến của bản thân; Nghe tập trung vào những bài thuyết trình của bạn; Nói về hình mảng, màu sắc và đường nét biểu cảm qua âm nhạc.
Ở hoạt động này các em đã hình thành, phát triển được năng lực trình bày kinh nghiệm của mình thông qua tác phẩm Mỹ thuật.
2.2. Lựa chọn hình ảnh trong thế giới tưởng tượng
2.2.1. Mục tiêu: Khuyến khích học sinh phát huy trí tưởng tượng của mình; Tự tìm hình ảnh trong bức tranh lớn; Khuyến khích các em phát triển câu chuyện từ một mảng nhỏ của cả bức tranh; Thúc đẩy hình thức thuyết trình, tập trung lắng nghe.
2.2.2. Cách thực hiện:
– Giáo viên hướng dẫn mỗi học sinh dùng một khung giấy theo các hình tùy ý được trổ từ khổ giấy A4 và dịch chuyển trên bức tranh lớn để tìm kiếm phần màu sắc, đường nét mình thích rồi dán khung giấy vào vị trí đó trên bức tranh lớn. Học sinh tưởng tượng và lần lượt kể trước lớp về câu chuyện trong bức tranh mình đã lựa chọn. Giáo viên sử dụng câu hỏi nhằm gợi ý, phát triển trí tưởng tượng của học sinh.
Ví dụ về một câu chuyện tưởng tượng: “Từ những đường nét và màu sắc này, tôi tưởng tượng như mình đang nhìn thấy những con bướm đủ màu sắc sặc sỡ bay lượn vờn trên những cánh hoa đung đưa theo gió trong nắng vàng rực rỡ”.
– Giáo viên chuẩn bị một khung tìm hình được trổ ra từ giấy cho từng học sinh hoặc để các em tự làm các khung tìm riêng mình tùy vào sở thích và trình độ của học sinh.
– Với ví dụ trên, mỗi học sinh sẽ tìm cho mình con chim đặc biệt đó. Các em suy nghĩ và tự tìm ra cho mình những câu chuyện để kể. Các em sẽ lần lượt kể câu chuyện đó cho cả lớp, khi kết thúc mỗi câu chuyện, người kể sẽ chỉ định bức hình tiếp theo của bạn khác để trình bày và cứ thế tiếp tục, các em đều có cơ hội kể câu chuyện của mình.
2.2.3 . Kết quả: Cuối hoạt động này học sinh có khả năng:
Chọn được một phần bức tranh dựa theo một chủ đề; sáng tác câu chuyện liên quan đến phần đã cắt khỏi bức tranh lớn; Thuyết trình bức tranh đã chọn và kể câu chuyện sáng tác cho cả lớp.
Ở hoạt động này học sinh được hình thành khả năng tưởng tượng phong phú và phát huy năng lực sáng tạo.
Hoạt động 3. Học sinh làm các sản phẩm từ bức tranh vẽ theo nhạc.
3.1. Mục tiêu : Khuyến khích học sinh xây dựng ý tưởng từ khung màu, lựa chọn để tạo ra một bức tranh theo tưởng tượng, bìa sách, bưu thiếp hoặc thiệp mời; Gợi mở và hỗ trợ học sinh thực hiện trang trí bìa sách, thiệp và các sản phẩm ứng dụng theo ý thích…Tạo cơ hội cho học sinh vận dụng kiến thức trang trí vào sản phẩm.
3.2. Cách thực hiện:
Giáo viên hướng dẫn và hỗ trợ các nhóm trang trí sản phẩm của mình với các câu hỏi mang tính chất gợi mở để học sinh chủ động, sáng tạo theo ý thích và khả năng riêng.
Học sinh tự làm các sản phẩm của riêng mình một cách sáng tạo. Các em sẽ viết các chữ cái trang trí hoặc những dòng chữ viết tay thật đẹp tùy theo khả năng của từng em vào những vị trí phù hợp ở bìa sách, bìa lịch, bưu thiếp hoặc thiệp mời. Giáo viên sẽ hỗ trợ các em trong suốt quy trình này.
– Giaó viên đưa ra câu hỏi hỗ trợ giúp các em dễ hình dung và làm các sản phẩm tốt hơn:
+ Em muốn tạo ra sản phẩm gì?
+ Trong khung hình đã chọn, em muốn giữ lại và muốn lược đi chi tiết nào? Tại sao?
+ Bố cục sản phẩm của em có theo những gì em muốn thể hiện không? Em có muốn thay đổi hay chỉnh sửa gì không?
+ Em có gặp khó khăn gì trong thể hiện chữ viết trên sản phẩm không?
3.3 . Kết quả:
Cuối hoạt động này học sinh có khả năng nảy sinh ý tưởng hay, phù hợp với chủ đề để tạo được một bức tranh theo tưởng tượng, bìa sách, bưu thiếp, thiệp mời từ khung màu đã chọn; Lựa chọn được cách sắp xếp hình ảnh minh họa và chữ viết phù hợp, sáng tạo trong trang trí bìa, thiệp; Thảo luận về hiệu quả của các cách trình bày khác nhau.
Thông qua hoạt động 3 các em đã hình thành và phát triển được năng lực kỹ năng, kỹ thuật, năng lực biểu đạt và khả năng tư duy sáng tạo, tạo ra những sản phẩm Mỹ thuật, hợp tác và chia sẻ kinh nghiệm trên kênh thông tin đã được lựa chọn.
Hoạt động 4: Học sinh trình bày, thảo luận, đánh giá sản phẩm.
4.1. Mục tiêu: Khuyến khích học sinh giúp các em phát triển kỹ năng thuyết trình, giao tiếp và chia sẻ kinh nghiệm của quá trình thực hiện sản phẩm; Nâng cao khả năng phân tích, đánh giá và tự đánh giá cho học sinh.
4.2. Cách thực hiện:
Giáo viên tổ chức các nhóm học sinh trưng bày sản phẩm. Lần lượt từng học sinh lên giới thiệu sản phẩm và chức năng của sản phẩm. Giáo viên đưa câu hỏi gợi ý đánh giá:
+ Em có cảm nhận gì về tác phẩm? (đẹp, không đẹp, sáng tạo hay không)
+ Em thấy ý tưởng của tác phẩm như thế nào?
+ Em sẽ sử dụng sản phẩm này thế nào?
Trong quá trình đánh giá bản thân tôi tiến hành các hoạt động như:
Cho học sinh tự đánh giá, học sinh đánh giá giữa các cặp, nhóm.
Mục đích đánh giá giúp học sinh học tập và tiên bộ hơn.
Cuối cùng là đánh giá của giáo viên về sản phẩm các em, đánh giá nội dung quy trình, chủ đề bài học theo câu hỏi:
Các em đã học được gì trong quy trình vừa rồi?
Mục tiêu của chúng ta là gì?
Chúng ta cần nghiên cứu gì tiếp theo?
Kết quả của quy trình này có dùng được cho quy trình tiếp theokhông?
Giáo viên và học sinh thường xuyên trao đổi ý kiến về mục tiêu và kết quả của các hoạt động và việc đánh giá cần được thực hiện trong suốt quy trình. Nó có tính giáo dục hơn khi giáo viên tiến hành đánh giá liên tục bằng cách ghi chép lại sự tiến bộ của học sinh và chụp các bức ảnh trong suốt quy trình và sản phẩm triển lãm cuối cùng.
4.3. Kết quả:
Cuối hoạt động này học sinh có khả năng biết cách tổ chức trưng bày sản phẩm; Có kĩ năng giải thích, nhận xét, đánh giá các sản phẩm; Lắng nghe và phản hồi tích cực từ phần thuyết trình của các học sinh khác.
Ở hoạt động 4 các em đã hình thành và phát triển được năng lực phân tích, diễn giải và năng lực giao tiếp đánh giá.
Cùng với việc phát triển các kĩ năng nói trên ngoài ra các em còn phát triển các giác quan, các kĩ năng khác như kĩ năng sống, các năng lực hợp tác, kinh nghiệm và khả năng giải quyết vấn đề, năng lực tự học và tự đánh giá.
3.2.2.2. Tổ chức tiết dạy áp dụng quy trình tạo hình ba chiều – tiếp cận theo chủ đề cho học sinh hoạt động trải nghiệm sáng tạo nhằm hình thành, phát triển năng lực cho học sinh.
Trong quá trình dạy học tôi nhận ra một điều thú vị đó là mô hình dạy học mới tác động vào sự thay đổi của con người từ bên trong, nó giúp cho học sinh: học cách làm việc bằng niềm vui, học cách trải nghiệm để tạo ra hạnh phúc cho bản thân, chung sống hòa bình bằng cách hợp tác và tôn trọng những điều khác biệt, tự học cách giải quyết những vấn đề của mình…, nói tóm lại nó giúp cho não trạng của con người trở nên linh hoạt hơn, vận động phù hợp với sự phát triển của Thế giới .Với một phương thức dạy học khá tự do nó nhấn mạnh vào việc chú trọng tới sự phát triển tâm hồn cho học sinh hơn là sự phát triển về tri thức, nghĩa là tâm hồn rồi mới đến tri thức, điều đó sẽ giúp học sinh phát triển một cách bền vững và phát huy được những năng lực bên trong con người của các em trong quá trình trưởng thành.
Vận dụng khai thác Chủ đề “Thử nghiệm và sáng tạo với các chất liệu” (3 tiết).
Để tạo môi trường học tập hứng khởi, cuốn hút học sinh tôi nghiên cứu kĩ mục tiêu của chủ đề bài học kết hợp với mục tiêu của từng hoạt động đồng thời kết hợp nhiều phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, linh hoạt vận dụng quy trình tạo hình ba chiều – tiếp cận theo chủ đề tổ chức cho học sinh trải nghiệm và sáng tạo trong không gian lớp học kết hợp với không gian ngoài lớp học. Cụ thể là:
Hoạt động 1: Trải nghiệm thăm quan dã ngoại (tiết 1).
1.1. Mục tiêu:Khuyến khích học sinh xây dựng các ý tưởng liên quan đến chủ đề. Biết cách chọn một nội dung chủ đề cho công việc của các em. Khám phá phát hiện về những chất liệu mới từ thiên nhiên. Chia sẻ kinh nghiệm từ trí nhớ và quan sát.
1.2. Cách thực hiện :
Để chuyến đi của các em đạt kết quả tốt, tôi tiến hành lên kế hoạch cho buổi dã ngoại và báo cáo với ban giám hiệu. Trước khi xây dựng kế hoạch bài học, tôi có một chuyến khảo sát trước để tìm được địa điểm phù hợp đáp ứng với mục tiêu đề ra. Tổ chức cho các em tìm hiểu nội dung bài học và nêu mục đích, nhiệm vụ các em cần thực hiện trong chuyến đi với thời gian là 15 phút.
– Khi đi yêu cầu mỗi học sinh sẽ chuẩn bị cầm một cuốn vở A4, bút chì, tẩy, màu vẽ, keo, kéo, băng dính…các em có năng khiếu có thể sẽ thực hiện sáng tạo sản phẩm ngay trong chuyến đi (ảnh phụ lục).
– Yêu cầu học sinh giữ gìn vệ sinh chung và bảo vệ thực vật.
Giaó viên giao nhiệm vụ và theo sát hoạt động của các em, giúp đỡ các em khi cần thiết.
Cụ thể như sau: Bài học sẽ được tiến hành bằng hoạt động 1: Quan sát thiên nhiên, cỏ cây, hoa lá, các vật liệu…
Gíao viên tổ chức cho học sinh quan sát trực tiếp về thiên nhiên về cỏ cây hoa lá, về các vật liệu mà các em nhìn thấy, học sinh sẽ trò chuyện cùng nhau về cỏ cây, hoa lá, về các vật liệu khác như đá, sỏi…; Trong hoạt động này giáo viên đặt cho các em một số câu hỏi như: Cỏ cây, hoa lá, đá, sỏi… có hình dạng, cấu tạo, đặc điểm và màu sắc như thế nào? Chúng có giống nhau không? Mục đích là học sinh tìm tòi và trao đổi với nhau dễ hơn. Em hãy quan sát kĩ xem những chiếc lá, bông hoa, những viên đá, viên sỏi có giống với hình dạng của đồ vật hay con vật nào không? Giaó viên khuyến khích học sinh dành thời gian để quan sát thực vật, đồ vật mà các em nhìn thấy sẽ cảm thấy yêu thích và bắt đầu vẽ hình dạng bên ngoài cơ bản sau mới chuyển sang các chi tiết. Riêng với học sinh có năng khiếu các em phác họa luôn bằng màu sắc, không sử dụng bút chì. Bằng hoạt động này học sinh sẽ liên tưởng đến các hình ảnh có trong cuộc sống xung quanh mình. Từ đó các em sẽ phát triển tư duy và trí tưởng tượng phong phú của mình: liên tưởng đến đồ vật, con vật và có thể sáng tạo các sản phẩm từ hoa, lá, từ đá, sỏi…Sau hoạt động vẽ trực tiếp qua quan sát tôi yêu cầu các em sưu tầm những chiếc lá khô, lá rụng, những viên đá, viên sỏi… có màu sắc và hình dáng đẹp để chuẩn bị cho hoạt động tiếp theo. Trong quá trình sưu tầm chất liệu tôi lưu ý học sinh chọn loại vật liệu nào phù hợp cho lứa tuổi của các em, cái gì khó và nguy hiểm chúng ta nên bỏ qua.
Sau khi học sinh đã sưu tầm những chiếc lá khô, lá rụng, những viên đá, viên sỏi… có màu sắc và hình dáng đẹp tôi lại yêu cầu các em di chuyển về lớp và bắt đầu với hoạt động 2.
1.3. Kết quả: Cuối hoạt động này, học sinh có khả năng tạo ý tưởng và trình bày được ý tưởng về sản phẩm; Lắng nghe và tôn trọng ý kiến từ những người khác; Thu thập được các chất liệu tìm được; Khám phá sản phẩm của chính mình.
Qua hoạt động 1 đã chứng tỏ nội dung học tập được thể hiện qua mối quan tâm của học sinh với thế giới thực tế xung quanh. Giáo dục Mỹ thuật đã bám sát các vấn đề của thực tiễn, học sinh áp dụng kiến thức vào giải quyết vấn đề của thực tiễn thay cho việc nhồi nhét thông tin. Đó chính là quá trình giúp học sinh nhận thức, hiểu và vận dụng kiến thức Mỹ thuật vào thực tiễn cuộc sống. Dạy học dựa trên trải nghiệm thực tế luôn mang lại cảm hứng và lôi cuốn học sinh, chú trọng đến sự quan tâm của học sinh và nhu cầu lợi ích của xã hội nhằm phát huy cao độ tính tích cực, tự lực, rèn luyện cho học sinh cách làm việc độc lập, phát triển tư duy sáng tạo. Đây chính là nguồn cảm hứng từ thực tiễn mà học sinh đã có được sau khi đi trải nghiệm.
Hoạt động 2: Giáo viên tổ chức cho học sinh được cùng nhau sáng tạo các sản phẩm từ nhiều chất liệu như hoa, lá, đá, sỏi, vật tìm được…
2.1. Mục tiêu của hoạt động: Khuyến khích học sinh quan sát hình dáng vật liệu tìm được bằng “con mắt mới”; sử dụng trí tưởng tượng về hình ảnh. Tò mò, sáng tạo và thúc đẩy học sinh trải nghiệm; Thưởng thức và vui chơi tạo ra những ý tưởng mới. Thử nghiệm và tìm cách kết nối các yếu tố; Trải nghiệm việc hợp tác và có sự giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau trong hoạt động nhóm.
2.2. Cách thực hiện:
Học sinh trải nghiệm và học qua cảm giác của mình: sờ, khám phá, làm, tạo ra là những phương pháp cơ bản trên thế giới vẫn hay dùng. Giác quan của học sinh được kích thích khi giáo viên đưa những vật liệu tìm được vào trong quy trình sáng tạo.
Bước đầu tôi yêu cầu học sinh chia sẻ xem các em đã sưu tầm được những vật liệu gì.
Học sinh thu thập, phân loại vật liệu tìm được vào các hộp khác nhau để sử dụng trong các hoạt động. Học sinh chia sẻ những vật liệu tìm được, có thể mở đầu cho một quy trình sáng tạo, ở đó dẫn dắt nội dung phát triển theo vật liệu. Giáo viên đặt câu hỏi gợi ý như sau:
Các em dự định sẽ sáng tạo thành sản phẩm gì? Hãy nêu dự định sẽ sáng tạo sản phẩm của mình theo cách nào?
Giaó viên hướng dẫn học sinh cách thực hiện tạo sản phẩm theo 2 cách:
Cách 1: Tưởng tượng hình ảnh rồi tìm chọn vật liệu có hình dáng, màu sắc phù hợp để tạo hình.
Cách 2: Từ hình dáng của vật liệu đã chọn, tưởng tượng ra hình ảnh sản phẩm và thực hiện tạo hình.
Giáo viên tổ chức một quy trình dạy – học Mỹ thuật dựa trên phương pháp tiếp cận theo chủ đề, giáo viên sẽ khiến tất cả học sinh tham gia vào việc suy nghĩ để tạo ra một sơ đồ tư duy thu thập tất cả ý kiến của học sinh về chủ đề đã lựa chọn.
Sơ đồ tư duy: Học sinh được yêu cầu suy nghĩ và viết ra những gì các em nghĩ đến trong đầu khi nghe đến tên chủ điểm, ví dụ như chủ đề: Con vật, tôi tạo một sơ đồ tư duy lên bảng và viết từng nội dung của chủ điểm theo mẫu dưới đây:
Sơ đồ trên cho thấy sự bắt đầu phát triển theo chủ điểm “Con vật”. Trong ví dụ này học sinh sẽ có ý kiến khác nhau về con vật giữa con vật nuôi và con vật hoang dã sống ở các môi trường khác nhau. Giáo viên dần dần hướng các em vào các chủ điểm mà các em yêu thích trong chủ đề: Thử nghiệm và sáng tạo với các chất liệu.
Giáo viên hướng học sinh quyết định sẽ làm gì trong tiết học tiếp theo, học sinh sẽ tạo ra một bức tranh theo ý tưởng của các em.
Giáo viên tạo sự chú ý và tạo động lực cho học sinh bằng cách đưa ra những gợi ý và giúp học sinh lựa chọn những chất liệu khác nhau.
Học sinh nghiên cứu vật liệu tìm được, có cái nhìn mới về chúng. Thu thập vật liệu và lắp ráp những thứ đó vào trong quy trình giúp học sinh năng động hơn và giúp các em có ý thức bảo vệ môi trường và tái tạo vật liệu.
Học sinh thu thập vật liệu và có cơ hội kiến tạo các sản phẩm mang tính sáng tạo, có không gian.
Học sinh làm việc theo cặp/nhóm để giúp nhau phát triển các ý tưởng. HS chia sẻ, bàn luận, sắp xếp, thể hiện ý tưởng và có hướng giải quyết mới. Học sinh sẽ tạo ra một sản phẩm mơ ước hoàn toàn mới. Học sinh hoàn thành sản phẩm của mình, giáo viên khuyến khích các em tạo thêm bối cảnh, môi trường … mà các em thấy cần thiết tạo cho sản phẩm thêm sinh động hơn… Khi các em đã tạo ra được khung cảnh trong một phạm vi nào đó, các em có thể không muốn dừng lại. Ý tưởng này có thể làm nảy sinh ý tưởng tiếp theo. Đó chính là sự sáng tạo và không ngừng sáng tạo, là cách học mà chơi, chơi mà học.
2.3. Kết quả: Cuối hoạt động này học sinh có khả năng tưởng tượng, tạo được ý tưởng mới; Chia sẻ ý tưởng từ nhiều thử nghiệm khác nhau; Tìm được cách để lắp ráp vật liệu; Lắp ráp và tạo ra sản phẩm phù hợp với chủ đề; Hợp tác và chia sẻ ý tưởng về cách lắp ráp; Cảm thấy thú vị khi sử dụng vật dụng bỏ đi, đồ vật tìm được hoặc vật liệu rẻ tiền khác để tạo ra sản phẩm.
Hoạt động 3: Trưng bày, giới thiệu và đánh giá sản phẩm.
3.1. Mục tiêu: Khuyến khích học sinh có được mối quan tâm, trí tò mò và sự hợp tác cả khi ở trong và ngoài lớp học; Thu thập hình ảnh về những vật liệu; Phân loại được vật liệu; Đưa ra các bình luận và chia sẻ ý tưởng trong lớp.
3.2. Cách thực hiện:
Giaó viên tổ chức cho học sinh trưng bày sản phẩm. Hướng dẫn các em thuyết trình về sản phẩm của mình. Gợi ý các học sinh khác cùng tham gia đặt câu hỏi để cùng chia sẻ, trình bày cảm xúc, học tập lẫn nhau. Đặt câu hỏi gợi mở để giúp các em khắc sâu kiến thức và phát triển kĩ năng thuyết trình, tự đánh giá.
Ví dụ: Em có cảm nhận như thế nào khi được tham gia trải nghiệm thực tế? Em hãy nêu suy nghĩ của mình khi được trải nghiệm tạo hình các sản phẩm Mỹ thuật bằng nhiều chất liệu khác nhau? Em đã tạo được sản phẩm gì? Bằng những vật liệu nào?
Em có ý tưởng trước khi tạo hình hay em tạo hình sản phẩm dựa trên hình dáng những vật liệu tìm được? Em thích sản phẩm nào của bạn? Vì sao em thích? Em có nhận xét gì và học hỏi được gì từ những sản phẩm của bạn?
Giáo viên là người định hướng và dẫn dắt cho học sinh nắm được cách thức sưu tầm và sử dụng đồ dùng, giáo dục cho các em các kĩ năng sống là ý thức biết giữ gìn, làm sạch môi trường thêm xanh- sạch- đẹp; đồng thời sau mỗi chủ đề bài học hướng các em đến kĩ năng thuyết trình, giới thiệu, chia sẻ, nhận xét về sản phẩm của mình, nhóm mình, của bạn, nhóm bạn nhằm giúp các em phát triển khả năng giao tiếp và khả năng tự tin trước đám đông.
3.3. Kết quả: Cuối hoạt động này học sinh có khả năng lắng nghe và tạo cảm hứng cho nhau trong hoạt động ngoài lớp học; biết vận động gia đình tham gia vào quá trình thu thập những chất liệu tưởng chừng là rác bỏ đi; Phân loại được hình ảnh và chuẩn bị cho bài trình bày; trình bày, giải thích về cách giải quyết của mình khi thực hiện hoạt động.
3. 3. Biện pháp 3: Chuẩn bị đầy đủ thiết bị đồ dùng trước khi giảng dạy và cách giữ gìn đồ dùng học tập của học sinh.
3.3.1. Giáo viên:
Việc sử dụng đồ dùng trực quan trong giờ giảng Mỹ thuật là việc không thể thiếu đối với người giáo viên chuyên Mỹ thuật. Nó là đặc thù của bộ môn vì thế tôi rất quan tâm chú trọng đến sự chuẩn bị đồ dùng trước giờ lên lớp sao cho thật chu đáo, thật đầy đủ và sát với yêu cầu, mục đích bài học. Đặc biệt, tôi luôn chọn lựa đồ dùng dạy học có tính thẩm mĩ, khoa học.
Qua nghiên cứu, tôi đã tự chế tạo ra những đồ dùng phù hợp với đặc thù mỗi chủ đề như những dáng người từ lõi giấy vệ sinh, bảng sắp xếp bố cục để chơi trò chơi đầu giờ hoặc cuối giờ nhằm kiểm tra và củng cố kiến thức. Một số đồ dùng được thiết kế để minh họa cách thực hiện cho sinh động và cụ thể hơn (ảnh phụ lục). Với thiết kế gọn gàng khoa học, có tính thẩm mĩ cao nên học sinh của tôi thường trầm trồ thán phục và rất hứng thú khi được định hướng bằng đồ dùng trực quan sinh động ấy, các sản phẩm vô cùng độc đáo được chính các em thiết kế thông qua các mô hình mẫu.
Ngoài đồ dùng tự làm tôi còn thiết kế tranh ảnh, clip trong giáo án điện tử. Tìm tranh ảnh, clip sát với nội dung và cho học sinh quan sát, nhận xét theo nhóm câu hỏi đề ra… Ở nhóm đồ dùng này khi hướng dẫn cho học sinh hiểu cách sáng tạo, tôi chú trọng tạo nên các slide sử dụng hiệu ứng chuyển động trong powerpoint để đưa thực tế vào trong tác phẩm một cách thật nhất. Cách thể hiện này giúp cho học sinh thích thú và hiểu vấn đề rất nhanh, giáo viên cũng tiết kiệm được thời gian vì không phải trình bày quá dài dòng gây nhàm chán cho học sinh. Đặc biệt sử dụng công nghệ thông tin vận dụng được rất nhiều chủ đề trong việc hướng dẫn học sinh hiểu cách thực hiện.
Bên cạnh đó sản phẩm của học sinh năm trước (ảnh phụ lục) là đồ dùng không thể thiếu được trong các tiết dạy vì đó là những đồ dùng gần gũi nhất với các em, cùng lứa tuổi đó mà các anh chị năm trước đã có sự thành công nhất định như vậy khiến các em cảm thấy ngưỡng mộ và tích cực học hỏi kiến thức phù hợp với trình độ nhận thức của mình. Có tiết tôi đưa sản phẩm trực tiếp gắn lên bảng nhưng cũng có tiết tôi đưa vào các slide sau phần hướng dẫn cách thực hiện nhằm giúp học sinh nhận xét và biết rút kinh nghiệm vận dụng vào ý tưởng của mình.
3.3.2. Học sinh:
Về phía học sinh, tôi đã yêu cầu các em chuẩn bị đầy đủ, sách vở, giấy vẽ, màu vẽ, đất nặn, vật dụng tái chế, băng keo, chì, tẩy…, những đồ dùng học tập cần thiết, ngoài ra động viên các em nên tìm hiểu và quan sát tham khảo trên thực tế về chủ đề mà mình sẽ thể hiện.
Đối với học sinh thường xuyên quên đồ dùng khi đến lớp, ngay từ đầu năm học, tôi yêu cầu mỗi HS có 1 quyển vở dặn dò dành riêng cho môn Mỹ thuật, quyển vở đó dành để ghi đầu bài ở đầu tiết học và ghi dặn dò cuối tiết. Yêu cầu các em đọc kĩ phần Chuẩn bị trong vở Mỹ thuật ngay ở trang đầu tiên của mỗi chủ đề trước 1 tuần, để tất cả đồ dùng đựng trong 1 túi riêng, bên ngoài có ghi rõ họ tên lớp và đóng lại cẩn thận rồi mang để tại lớp, những đồ dùng mang tính sáng tạo yêu cầu các em để gọn gàng trong túi ni lông cất gọn trong tủ của lớp ở ngoài hành lang. Kết hợp giao nhiệm vụ cho các tổ trưởng kiểm tra đồ dùng của từng tổ viên ghi chép cẩn thận báo cáo lại với lớp trưởng. Phối hợp cùng giáo viên chủ nhiệm nhắc nhở các em, nếu học sinh tích cực tôi kết hợp với giáo viên chủ nhiệm khen trước lớp và có phần thưởng nhỏ dành cho những học sinh đó. Cách làm này tôi thấy các em tích cực và hạn chế việc quên đồ dùng rất nhiều, tiết học diễn ra sôi nổi đầy say mê và sáng tạo.
Qua đây học sinh hình thành năng lực tự lập, biết sắp xếp đồ dùng khoa học, đam mê sáng tạo và có trách nhiệm với nhiệm vụ được giao.
3.4. Biện pháp 4: Tổ chức hiệu quả của hoạt động nhóm trong các tiết dạy.
Có nhiều hình thức tổ chức học tập như cá nhân, lớp, nhóm. Tùy theo từng mục tiêu cần đạt được mà giáo viên lựa chọn, phối hợp một cách hợp lí các hình thức học tập. Tăng cường tổ chức cho học sinh làm việc nhóm để học sinh có cơ hội trao đổi bàn bạc.Tuy nhiên, không phải lúc nào học tập nhóm cũng là tốt. Chúng ta chỉ nên cho học sinh làm việc nhóm khi câu hỏi đặt ra khá rộng, khó, cần sự góp ý của nhiều người thì làm việc nhóm mới thật cần thiết và đạt hiệu quả. Phát huy ưu điểm của phương pháp tổ chức dạy – học theo nhóm tùy theo hoạt động của tiết học tôi chia lớp học thành các nhóm, nhóm nhỏ 2- 3, 4 em, nhóm lớn từ 5 đến 10 em, cho các em thi đua tìm hiểu nội dung bài, sau đó điều khiển hoạt động của các nhóm. Đặt câu hỏi lần lượt theo các nội dung phải tìm hiểu và cho mỗi nhóm 1, 2 đại diện học sinh trả lời, các nhóm khác phát biểu ý kiến bổ sung, nhận xét. Tôi luôn theo dõi và hướng dẫn, điều khiển các nhóm hoạt động, bổ sung và tổng kết ý kiến của các nhóm sau mỗi nội dung tìm hiểu. Nêu vấn đề để một nhóm đặt câu hỏi cho nhóm khác trả lời, các nhóm còn lại bổ sung ý kiến và nhận xét. Cuối cùng tôi tổng kết ý kiến của các nhóm qua mỗi nội dung tìm hiểu và phân công nhiệm vụ cho các nhóm ở nội dung tiếp theo. Câu hỏi thảo luận đưa ra cho học sinh phải bám sát vào nội dung của bức tranh, phù hợp với đối tượng học sinh và chủ yếu là câu hỏi gợi mở để học sinh thảo luận nhóm theo chủ đề có hiệu quả .
Chú trọng hình thành và phát triển ở học sinh kĩ năng tự học, tự nghiên cứu, sưu tầm tư liệu, tranh ảnh…Để phát triển kĩ năng này tôi phải yêu cầu học sinh đọc sách, sưu tầm tư liệu liên quan đến nội dung của bài trên báo, tạp chí,…có thể đưa ra yêu cầu cụ thể bằng câu hỏi hoặc phiếu giao việc.
Ví dụ: Trong chủ đề bài học “ Âm Nhạc và sắc màu” lớp 5.
Tiết 1 – Tìm hiểu . Tôi tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm nhỏ, nhóm đôi ở hoạt động 1 quan sát, nhận xét, nhóm 4 ở hoạt động tìm hiểu các sản phẩm trang trí từ bức tranh vẽ theo nhạc, tôi giao cho các nhóm những nội dung liên quan đến bài học, yêu cầu các em sưu tầm tranh ảnh tạo thành những bài sưu tầm và trình bày trước lớp.
Tiết 2 – Thực hành vẽ theo giai điệu âm nhạc tôi tổ chức các em vẽ theo giai điệu âm nhạc theo nhóm lớn nhóm 5 – 6 em.
Với những nhiệm vụ như vậy chúng ta dần dần hình thành và phát triển ở học sinh kĩ năng tự học, tự nghiên cứu một cách độc lập, sáng tạo. Vào giờ học, tôi tổ chức các hoạt động để học sinh thảo luận trong nhóm và trình bày những hiểu biết của mình về nội dung bài học đã chuẩn bị. Các em có thể nêu những thắc mắc hoặc câu hỏi để tôi giải thích những điều chưa rõ. Giờ học sẽ thật sôi nổi và thú vị nếu các em chuẩn bị bài chu đáo trước khi đến lớp.
Khi học sinh nêu nhận xét về các tác phẩm, tranh, ảnh có thể còn phiến diện, chưa cụ thể hoặc chưa đúng tôi không vội đưa ra kết luận của mình hoặc điều chỉnh ý kiến của học sinh mà nên khuyến khích các em phát biểu ý kiến nhận xét của mình. Như vậy, chúng ta sẽ thu được ý kiến của nhiều học sinh. Trên cơ sở đó, chúng ta phân tích được khả năng tự nhận biết, kĩ năng của học sinh đến đâu và từ đó giáo viên cần cung cấp, bổ sung thêm kiến thức phát triển kĩ năng cho học sinh. Như vậy đã gây được sự hứng thú học tập cho học sinh đối với quy trình Vẽ theo giai điệu âm nhạc, tạo hình ba chiều- tiếp cận theo chủ đề nói riêng và bộ môn Mỹ thuật nói chung.
3.5. Biện pháp 5: Tổ chức lồng ghép trò chơi phù hợp trong các tiết học.
Môn Mỹ thuật là môn học nghệ thuật, vì vậy để kích thích và lôi cuốn học sinh hào hứng với giờ học, tôi đã thiết kế lồng ghép trò chơi giúp các em phát triển trí nhớ, trí tưởng tượng sáng tạo thông qua việc tái tạo nội dung, hình tượng, tiếng kêu, tiếng động …để xây dựng hình ảnh của bài vẽ.
Khi sử dụng trò chơi việc đầu tiên là phải tính toán thật kĩ, chọn lọc, áp dụng mỗi trò chơi vào từng bài học khác nhau, trò chơi mang tính chất củng cố kiến thức giúp học sinh nắm chắc kiến thức hơn, cụ thể: học sinh Tiểu học chưa hiểu sâu về bố cục hình ảnh trong tác phẩm, thường dàn trải về bố cục, chưa có trọng tâm, màu sắc đôi khi bị diễn tả theo lối kể lể…như vậy cần phối hợp trò chơi có tính khoa học, tính logic cao nhất để học sinh tự rút ra cho mình bài học tránh những lỗi thông thường nhất, có thể tổ chức trò chơi ở phần mở bài, thực hành hay ở cuối bài học.
Do học theo phương pháp mới, học theo chủ đề gồm nhiều tiết học nên cá nhân tôi thiết kế mỗi một tiết học có ít nhất một trò chơi giúp các em thư giãn, giải trí sau một khoảng thời gian học tập mệt mỏi, căng thẳng.
Ví dụ: Chủ đề “Âm Nhạc và sắc màu”. Tôi thiết kế trò chơi ngay ở phần đầu bài học.
– Trò chơi có tên là: Thính tai, nhanh tay, nhanh mắt.
– Yêu cầu của trò chơi: Tôi cử 3 học sinh đại diện 3 tổ trong lớp, các em còn lại động viên cổ vũ cho nhóm của mình.
– Thời gian: được thực hiện theo giai điệu của bài hát lặp lại hát 2 lần.
– Nội dung trò chơi: Giáo viên sử dụng âm nhạc, bài hát giúp các em làm quen với giai điệu âm nhạc, nhận biết hình ảnh có trong bài hát và vẽ nhanh các hình ảnh có trong lời bài hát để các em liên tưởng đến chủ đề bài học.
– Hết thời gian tham gia trò chơi tôi và học sinh nhận xét đánh giá kết quả hoạt động, tuyên dương đội vẽ được nhiều hình ảnh có trong bài hát và thời gian nhanh.
Ví dụ: Chủ đề “Thử nghiệm và sáng tạo với các chất liệu ”.
Tôi tổ chức trò chơi ở cuối bài học.
– Trò chơi có tên: Em tập làm hướng dẫn viên.
– Yêu cầu trò chơi: Tôi chọn 1-2 học sinh đóng vai người hướng dẫn viên. Học sinh dưới lớp làm du khách tham quan.
– Thời gian: tối đa là 4-5 phút.
– Nội dung trò chơi: 2 học sinh làm hướng dẫn viên. Ở dưới lớp các bạn là du khách đi thăm quan triển lãm tranh. Dựa trên nội dung bài mà các em vừa được học, người hướng dẫn viên giới thiệu cho du khách tham quan về các sản phẩm, tác phẩm của các em vừa hoàn thành. Thông qua trò chơi học sinh sẽ phát triển khả năng ngôn ngữ giao tiếp thông qua hội thoại. Đây chính là sự hình thành và phát triển năng lực giao tiếp, đánh giá của các em.
Trò chơi kết thúc tạo cho học sinh niềm hào hứng khi xem lại kết quả bài vẽ của nhóm mình và các nhóm bạn. Các em cũng sẽ sung sướng, tự hào khi bức tranh của mình được các bạn yêu thích và giới thiệu cho tất cả mọi người xem. Thông qua việc chọn tranh và giới thiệu tranh, dần dần hình thành ở các em khả năng cảm thụ thẩm mĩ tranh tốt hơn.
– Kết thúc trò chơi tôi và học sinh nhận xét đánh giá kết quả hoạt động, tuyên dương bạn có lời giới thiệu lưu loát, khả năng giao tiếp tốt, ứng xử nhanh.
– Với yêu cầu này bằng sự nhanh nhẹn khéo léo, khả năng quan sát, phán đoán tư duy của mình. Trò chơi giúp học sinh hứng thú học tập, khắc sâu bài học và biết vận dụng kiến thức của bài học vào cuộc sống.
3.6. Biện pháp 6. Đổi mới hình thức đánh giá phù hợp với nội dung từng chủ đề.
3.6.1. Đánh giá cá nhân: Giáo viên và học sinh chọn bài ở các mức độ khác nhau có loại hoàn thành và loại chưa hoàn thành treo lên bảng và đưa ra các tiêu chí đánh giá.
Học sinh quan sát bài từ 1 đến 2 phút, cá nhân học sinh đưa ra ý kiến nhận xét và xếp loại bài theo cảm nhận riêng.
Giáo viên lấy ý kiến cả lớp về kết quả xếp loại sau đó nhận xét, nêu những ưu điểm và hạn chế của từng bài. (Giáo án minh họa – Phụ lục 1- Hoạt động Trưng bày, thuyết trình, giới thiệu, đánh giá sản phẩm).
3.6.2. Đánh giá nhóm : Áp dụng cho những bài thực hành theo nhóm, các nhóm trưng bày bài của nhóm mình và nhận xét chéo. Đại diện một nhóm nhận xét xong nhóm được nhận xét có thể phản hồi để bảo vệ thành quả của nhóm mình nếu thấy không phù hợp. Hình thức đánh giá này luôn tạo không khí sôi nổi cho tiết học giúp học sinh nắm vững kiến thức hơn.
3. 6 .3. Đánh giá bằng trắc nghiệm : Tôi treo tranh đã chọn theo từng mức độ hoàn thành của bài treo lên bảng và đánh số thứ tự các tranh.
– Học sinh tự nhận xét cá nhân rồi ghi lại kết quả xếp loại.
– Giáo viên gợi ý cho một số học sinh nhận xét, xếp loại tranh theo tiêu chí chung.
– Giáo viên nhận xét xếp loại của từng tranh, học sinh nào trùng với kết quả đó thì giơ tay.
Qua cách đánh giá này tôi có thể biết bao nhiêu phần trăm học sinh nắm vững kiến thức theo yêu câu của bài vẽ, hướng cho học sinh biết cảm nhận vẻ đẹp của một tác phẩm Mỹ thuật.
Như vậy thông qua việc đánh giá kết quả chủ đề bài học đã hình thành và phát triển năng lực giao tiếp và đánh giá của chính các em. Học sinh ngày càng mạnh dạn hơn, biết nhận xét và chia sẻ cảm xúc, kinh nghiệm của mình với bạn bè và cô giáo.
KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
1. Kết quả khảo sát sau khi áp dụng sáng kiến
Sau khi áp dụng những biện pháp trên trong việc tổ chức hoạt động trải nghiệm và sáng tạo phát triển năng lực cho học sinh lớp 5 trong môn Mỹ thuật ở trường Tiểu học Mai Động, tôi nhận thấy các em học sinh đã hứng thú học tập hơn, sản phẩm của các em đẹp hơn. Để đánh giá mang tính khách quan, tôi đã tiến hành thăm dò ý kiến, mức độ tự tin, hứng thú, sáng tạo và khảo sát yêu cầu cần đạt sau khi áp dụng sáng kiến ở một số khối lớp như sau:
Bảng 1: Kết quả khảo sát mức độ tích cực hoạt động và mức độ sáng tạo sau khi thực hiện sáng kiến.
Lớp
Sĩ số
HS tích cực hoạt động
HS chưa tích cực hoạt động
HS sáng tạo
HS chưa
sáng tạo
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
5A5
51
45
88,2
6
11,8
45
88,2
6
11,8
5A6
49
42
85,7
7
14,3
40
81,6
9
18,4
5A7
54
48
89
6
11
45
83,3
9
16,7
Bảng 2: Kết quả đạt được sau khi áp dụng sáng kiến
Lớp
Sĩ số
Kết quả
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
SL
%
SL
%
5A5
51
35
68,6
16
31,4
5A6
49
30
61,2
19
38,8
5A7
54
36
66,7
18
33,3
So sánh đối chiếu kết quả trước và sau khi áp dụng sáng kiến tôi nhận thấy có sự thay đổi lớn như sau:
Học sinh tỏ ra ngày càng yêu thích môn học hơn. Các em đã không rụt rè nhút nhát nữa mà trở nên rất tự tin. Như vậy sau khi áp dụng các biện pháp vào giảng dạy thường xuyên kết quả tăng đồng đều ở các lớp, không có học sinh nào không hoàn thành so với yêu cầu đặt ra.
Giáo viên chủ động, tự tin hơn trong việc chuẩn bị bài và giảng dạy bộ môn Mỹ thuật theo phương pháp mới.
Các em học sinh có sự sáng tạo và trí tưởng tượng phong phú nên những sản phẩm các em tạo ra rất ấn tượng, đẹp mắt, bố cục chặt chẽ, hình ảnh sinh động, màu sắc vui tươi.
Thời gian cho tiết học Mỹ thuật đảm bảo, hoạt động diễn ra nhẹ nhàng, tự nhiên.
Học sinh hứng thú hơn với các hoạt động của bài học nên chất lượng kết quả của bài học tốt hơn và đặc biệt các em đã dần hình thành và phát triển được 5 năng lực (năng lực trải nghiệm, năng lực kỹ năng và kỹ thuật, năng lực biểu đạt, năng lực phân tích và diễn giải, năng lực giao tiếp và đánh giá).
2. Kết quả được hình thành và phát triển một số năng lực cá nhân của học sinh khi tham gia hoạt động trải nghiệm và sáng tạo trong môn Mỹ thuật.
Các hoạt động tổ chức học tập ngoài lớp của môn học Mỹ thuật khi được tiến hành hợp lý sẽ cung cấp cho học sinh những trải nghiệm học tập hứng thú giúp các em khám phá bản thân và thế giới tốt hơn. Từ đó các em hình thành và phát triển được các năng lực:
Năng lực trải nghiệm
Năng lực kỹ năng và kỹ thuật;
Năng lực biểu đạt;
Năng lực phân tích và giải trình;
Năng lực giao tiếp và đánh giá.
Kết quả khối lớp thực nghiệm so với khối lớp không thực nghiệm cuối năm học 2017 – 2018 như sau:
Lớp
5A1
5A2
5A3
5A4
5A5
5A6
5A7
Tích cực
55%
50%
55%
55%
100%
100%
100%
Đam mê sáng tạo
60%
60%
50%
90%
95%
90%
95%
KẾT LUẬN – KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận.
Hoạt động trải nghiệm và sáng tạo là cách tổ chức trong hoạt động dạy và học vô cùng quan trọng, cần thiết với học sinh Tiểu học, nó giáo dục học sinh biết trải nghiệm thực tế, cảm nhận thực tiễn, cảm nhận được vẻ đẹp 8uthiên nhiên, cảm thụ âm nhạc để sáng tạo ra cái đẹp, biết yêu cái đẹp và giữ gìn trân trọng cái đẹp trong cuộc sống. Khơi gợi óc tư duy sáng tạo cho học sinh, là nhân tố góp phần giáo dục con người phát triển toàn diện. Do đó người giáo viên khi giảng dạy phải nghiên cứu kĩ bài trước khi lên lớp, nắm vững nội dung chương trình của môn học, xác định mục tiêu bài học, củng cố kiến thức mà học sinh đã chiếm lĩnh được, từng bước hình thành và phát triển năng lực nhất là năng lực tư duy cho học sinh. Hệ thống câu hỏi phải phân hóa cho từng đối tượng học sinh, đưa câu hỏi từ dễ đến khó để vận dụng các kiến thức cho phù hợp với từng đối tượng học sinh cũng như việc khai thác, mở rộng kiến thức đó ở mức độ nào giúp học sinh có thể lĩnh hội kiến thức một cách dễ hiểu và nhanh nhất giúp các em phát triển tư duy sáng tạo và phát triển khả năng giao tiếp một cách tốt nhất.
Khi đưa ra “Một số biện pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo nhằm phát triển năng lực cho học sinh lớp 5 trong môn Mỹ thuật ở trường Tiểu học Mai Động”, và dạy thực nghiệm. Kết quả tôi nhận được đó là sự say mê, yêu thích môn học, sự ham học hỏi và tìm tòi sáng tạo của các em đồng thời các em đã hình thành, phát triển được 5 năng lực (năng lực trải nghiệm, năng lực kỹ năng và kỹ thuật, năng lực biểu đạt, năng lực phân tích và diễn giải, năng lực giao tiếp và đánh giá) điều đó được thể hiện rõ qua kết quả môn học, và chất lượng môn nghệ thuật Mỹ thuật mà tôi phụ trách giảng dạy đã cao hơn rất nhiều so với trước đây tôi chưa áp dụng các biện pháp nói trên.
Từ thực tế kiểm tra thực nghiệm chất lượng tôi hoàn toàn có thể khẳng định rằng việc áp dụng “Một số biện pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo nhằm phát triển năng lực cho học sinh lớp 5 trong môn Mỹ thuật ở trường Tiểu học Mai Động”, thật sự mang lại hiệu quả học tập cao và quan trọng hơn nữa là làm giảm sự căng thẳng trong mỗi tiết học và tạo hứng thú học tập cho các em trong những giờ học sau đó.
2. Khuyến nghị
2.1. Đối với Phòng Giáo Dục .
– Phòng GD&ĐT tham mưu với các ngành chức năng và các cấp có thẩm quyền để xây dựng và trang bị cho nhà trường có phòng học chức năng riêng.
2.2. Đối với nhà trường .
– Về Ban giám hiệu nhà trường tạo điều kiện sắp xếp thời khóa biểu liền mạch các tiết theo chủ đề. Cần đầu tư trang thiết bị phục vụ cho môn học.
– Tổ chức cho các em đi thăm quan, học tập thực tế ở một số nơi: Như đi xem triển lãm tranh, đi thăm quan viện bảo tàng Mỹ thuật, đi trải nghiệm sáng tạo nghệ thuật…
2.3. Đối với giáo viên giảng dạy bộ môn Mỹ thuật
– Giáo viên phải có lòng nhiệt tình, tâm huyết với chuyên môn. Phải thường xuyên sưu tầm, học hỏi trao đổi kinh nghiệm cũng như mạnh dạn áp dụng đổi mới phương pháp dạy học vào bộ môn Mỹ thuật.
– Luôn cởi mở, sáng tạo, linh hoạt trong quá trình dạy học, biết động viên học sinh để các em tự tin hưởng ứng các hoạt động mà giáo viên tổ chức.
2.4. Đối với học sinh
– Các em học sinh phải mạnh dạn chia sẻ những điều khó hiểu hay những lúc gặp khó khăn với thầy cô. Chuẩn bị đồ dùng học tập đầy đủ, tác phong nhanh nhẹn, kiên trì, cẩn thận.
Để hoàn thành sáng kiến này, ngoài sự nỗ lực của bản thân nghiên cứu và thực hiện còn có sự đóng góp giúp đỡ rất nhiệt tình của ban giám hiệu nhà trường cùng đồng nghiệp. Với những suy nghĩ chủ quan và trong quá trình giảng dạy không tránh khỏi được những thiếu sót, những tồn tại. Rất mong nhận được sự đóng góp xây dựng của các cấp lãnh đạo và bạn bè đồng nghiệp để việc áp dụng một số biện pháp trong tổ chức hoạt động trải nghiệm và sáng tạo theo chủ đề môn Mỹ thuật nhằm phát triển năng lực cho học sinh lớp 5 nói riêng và học sinh cấp Tiểu học nói chung học tốt môn Mỹ thuật ở trường Tiểu học trong những năm tiếp theo đạt chất lượng tốt hơn./.
Quận Hoàng Mai