Phát triển 4 vùng động lực quốc gia
Trên cơ sở các vùng kinh tế trọng điểm hiện nay, lựa chọn một số địa bàn có điều kiện thuận lợi nhất để hình thành các vùng động lực quốc gia, bao gồm: Tam giác Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, Tứ giác Thành phố Hồ Chí Minh – Bình Dương – Đồng Nai – Bà Rịa – Vũng Tàu, vùng ven biển Thừa Thiên-Huế – Đà Nẵng – Quảng Nam – Quảng Ngãi và Tam giác Cần Thơ – An Giang – Kiên Giang (bao gồm cả Phú Quốc) với các cực tăng trưởng tương ứng của mỗi vùng là Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Cần Thơ, cụ thể:
Vùng động lực phía Bắc (Tam giác Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh)
Phát triển vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, tập trung vào Tam giác Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, dọc theo các hành lang quốc lộ 5 và quốc lộ 18, trong đó, Thủ đô Hà Nội là cực tăng trưởng; giữ vai trò quan trọng trong liên kết phát triển khu vực phía Bắc và kết nối quốc tế.
Xây dựng vùng động lực phía Bắc trở thành trung tâm khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo quốc gia; đi đầu trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, kinh tế số, xã hội số, chính quyền số; phát triển một số ngành dịch vụ hiện đại, chất lượng cao; các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giá trị gia tăng cao, tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu; trung tâm kinh tế biển với các ngành vận tải biển, du lịch biển đảo, kinh tế hàng hải và các ngành kinh tế biển mới.
Vùng động lực phía Nam (Tứ giác Thành phố Hồ Chí Minh – Bình Dương – Đồng Nai – Bà Rịa – Vũng Tàu)
Phát triển vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, tập trung vào Tứ giác Thành phố Hồ Chí Minh – Bình Dương – Đồng Nai – Bà Rịa – Vũng Tàu, trong đó Thành phố Hồ Chí Minh là cực tăng trưởng; giữ vai trò quan trọng trong liên kết phát triển khu vực phía Nam và kết nối quốc tế.
Xây dựng vùng động lực phía Nam trở thành trung tâm kinh tế, tài chính, thương mại, dịch vụ, giáo dục – đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số hàng đầu cả nước và khu vực Đông Nam Á.
Tập trung phát triển mạnh khoa học, công nghệ và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, đi đầu trong chuyển đổi mô hình tăng trưởng, xây dựng kinh tế số, xã hội số. Phát triển mạnh các dịch vụ tài chính, ngân hàng, khoa học công nghệ, logistics.
Thu hút đầu tư các ngành công nghiệp công nghệ cao, các công viên phần mềm, trí tuệ nhân tạo. Phát triển kinh tế biển như dịch vụ logistics, khai thác, chế biến dầu khí, du lịch biển.
Vùng động lực miền Trung (khu vực ven biển Thừa Thiên – Huế – Đà Nẵng – Quảng Nam – Quảng Ngãi)
Phát triển vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, tập trung vào khu vực ven biển Thừa Thiên-Huế – Đà Nẵng – Quảng Nam – Quảng Ngãi trở thành trung tâm dịch vụ, công nghiệp, đào tạo, y tế, khoa học công nghệ chất lượng cao; trung tâm logistics và du lịch biển; trong đó, thành phố Đà Nẵng là cực tăng trưởng; giữ vai trò quan trọng trong liên kết và thúc đẩy phát triển các vùng duyên hải miền Trung và Tây Nguyên.
Tiếp tục hình thành, phát triển hệ thống đô thị ven biển, các trung tâm du lịch biển, du lịch sinh thái mang tầm khu vực và quốc tế; trung tâm công nghiệp lọc hóa dầu quốc gia, công nghiệp ô tô – phụ trợ ngành cơ khí, khu công nghệ cao. Phát triển các cảng biển và dịch vụ cảng biển, hạ tầng và các trung tâm dịch vụ hậu cần nghề cá.
Vùng động lực đồng bằng sông Cửu Long (Tam giác Cần Thơ – An Giang – Kiên Giang
Phát triển vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng sông Cửu Long, tập trung vào Tam giác Cần Thơ – An Giang – Kiên Giang, trong đó thành phố Cần Thơ là cực tăng trưởng, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long và khu vực phụ cận.
Xây dựng vùng động lực đồng bằng sông Cửu Long trở thành trung tâm dịch vụ, du lịch, logistics, công nghiệp phục vụ nông nghiệp. Phát triển công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm, cơ khí, hóa chất phục vụ nông nghiệp.
Hình thành các trung tâm đầu mối về nông nghiệp gắn với các vùng chuyên canh; xây dựng vùng trở thành trung tâm khoa học công nghệ về nông nghiệp quốc gia và các dịch vụ phục vụ nông nghiệp.
Phát triển kinh tế biển, tập trung xây dựng Phú Quốc thành trung tâm dịch vụ, du lịch sinh thái biển mạnh mang tầm quốc tế; kết nối với các trung tâm kinh tế lớn trong khu vực và thế giới.
Từng bước xây dựng, hình thành vùng động lực tại các vùng trung du và miền núi phía Bắc, khu vực Bắc Trung Bộ, vùng Tây Nguyên. Trong giai đoạn sau năm 2030, nghiên cứu bổ sung địa bàn các tỉnh Khánh Hòa, Sóc Trăng vào các vùng động lực quốc gia khi có điều kiện phù hợp.
Phát triển các hành lang kinh tế
Hình thành và phát triển các hành lang kinh tế theo trục Bắc – Nam và hướng Đông – Tây dựa trên các tuyến giao thông đường bộ cao tốc, đường sắt, kết nối các cảng biển, cảng hàng không quốc tế, cửa khẩu quốc tế, đầu mối giao thương lớn và gắn với các đô thị, trung tâm kinh tế, cực tăng trưởng.
Ưu tiên phát triển các hành lang kinh tế gắn với vùng động lực quốc gia để thúc đẩy tăng trưởng và hiệu ứng lan tỏa.
Các hành lang kinh tế ưu tiên trong giai đoạn đến năm 2030
– Hành lang kinh tế Bắc – Nam
Ưu tiên hình thành và phát triển hành lang kinh tế Bắc – Nam trên cơ sở trục giao thông Bắc – Nam (đường bộ cao tốc Bắc – Nam phía Đông, Quốc lộ 1A; đường sắt Bắc – Nam và đường sắt tốc độ cao…).
Đây là hành lang kinh tế có vị trí đặc biệt quan trọng, kết nối các vùng động lực, các đô thị lớn, trung tâm kinh tế, đóng góp lớn cho phát triển kinh tế – xã hội của cả nước, tạo tác động lan tỏa thúc đẩy sự phát triển của dải ven biển và khu vực phía Tây đất nước.
Hình thành liên kết giữa trung tâm các vùng để tạo mối quan hệ kinh tế liên vùng trên trục hành lang. Mở rộng phát triển đô thị và hệ thống khu, cụm công nghiệp, trung tâm dịch vụ, du lịch gắn với các đô thị trung tâm tỉnh và vùng. Xây dựng phương án, bố trí không gian phát triển các đô thị, khu công nghiệp, trung tâm logistics… gắn với hành lang kinh tế Bắc – Nam trong các quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh để từng bước hình thành hành lang kinh tế.
– Phát triển hành lang kinh tế Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, là trục kết nối chủ đạo của vùng động lực phía Bắc và kết nối vùng Trung du và miền núi phía Bắc với các trung tâm kinh tế, cảng biển lớn của cả nước; thúc đẩy hợp tác thương mại, đầu tư giữa các địa phương của Việt Nam và khu vực phía Tây Nam Trung Quốc.
– Phát triển hành lang kinh tế Mộc Bài – Thành phố Hồ Chí Minh – Vũng Tàu gắn với hành lang kinh tế xuyên Á, là cửa ngõ ra biển của khu vực Đông Nam Bộ, thúc đẩy phát triển kinh tế vùng Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long và Tây Nguyên.
Từng bước hình thành và phát triển các hành lang kinh tế trong dài hạn
– Hành lang kinh tế theo đường Hồ Chí Minh và cao tốc Bắc – Nam phía Tây qua địa bàn Tây Nguyên, Đông Nam Bộ.
Hình thành hành lang kinh tế Tây Nguyên – Đông Nam Bộ nhằm thúc đẩy phát triển, liên kết vùng, gắn với tăng cường quốc phòng, an ninh. Đây là hành lang kinh tế kết nối các vùng nguyên liệu cây công nghiệp, công nghiệp chế biến, liên kết phát triển du lịch “con đường xanh Tây Nguyên”, tăng cường tác động lan tỏa của các đô thị trung tâm vùng, tiểu vùng như Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk), Pleiku (Gia Lai), Đồng Xoài (Bình Phước).
– Các hành lang kinh tế Đông – Tây: Từng bước hình thành các hành lang kinh tế:
+ Hành lang kinh tế Điện Biên – Sơn La – Hòa Bình – Hà Nội, kết nối tiểu vùng Tây Bắc với vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, có vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội tiểu vùng Tây Bắc.
+ Hành lang kinh tế Cầu Treo – Vũng Áng kết nối các địa phương Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào ra cảng biển tại Hà Tĩnh, Quảng Bình, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội các tỉnh Bắc Trung Bộ.
+ Hành lang kinh tế Lao Bảo – Đông Hà – Đà Nẵng gắn với hành lang Kinh tế Đông – Tây thuộc Tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS), kết nối các địa phương phía Nam Myanma, miền Trung của Thái Lan và Lào ra cảng biển của miền Trung Việt Nam, thúc đẩy giao lưu thương mại, du lịch, đầu tư giữa các nước, phát triển các địa phương Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung.
+ Hành lang kinh tế Bờ Y – Pleiku – Quy Nhơn, là cửa ngõ ra biển của khu vực Tam giác phát triển Campuchia – Lào – Việt Nam, kết nối các tỉnh Bắc Tây Nguyên với các tỉnh khu vực Nam Trung Bộ và cảng biển, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội vùng Tây Nguyên và Nam Trung Bộ.
+ Hành lang kinh tế Châu Đốc – Cần Thơ – Sóc Trăng, trục ngang trung tâm Đồng bằng sông Cửu Long, kết nối với cảng biển phía ngoài khơi cửa Trần Đề phục vụ xuất nhập khẩu trực tiếp cho vùng trong tương lai, thúc đẩy phát triển khu vực này thành trung tâm đầu mối về nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, logistics liên quan đến nông nghiệp của vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
+ Hành lang kinh tế Hà Tiên – Rạch Giá – Cà Mau, kết nối với hành lang ven biển phía Nam của Tiểu vùng Mê Công mở rộng nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội vùng ven biển Tây và vùng Đồng bằng sông Cửu Long.