Bò ta – Sự lựa chọn thông minh
Trại bò của anh Trong nằm sâu trong vườn cao su, cách vùng bán ngập hồ Dầu Tiếng vài trăm mét, đem lại nguồn thức ăn tự nhiên phong phú từ cỏ và lá cây.
Trong khi nhiều người nuôi chọn heo, gà, anh Trong lựa chọn nuôi giống bò ta truyền thống, với lý do chi phí đầu tư ít hơn, dễ nuôi hơn so với gà, heo. Bên cạnh đó, nuôi heo, gà còn có rủi ro cao về dịch bệnh và thị trường.
Bò ta thường ăn cỏ tươi, nguồn thức ăn tự nhiên mà không cần mua. Riêng rơm được dành cho những ngày mưa gió và không thể chăn thả.
Anh Trong thích lùa bò đi chăn thả hơn vì vùng bán ngập hồ Dầu Tiếng rộng lớn, mênh mông và có nhiều cỏ. Đàn bò được vận động, tăng cường sức khỏe, tốt hơn là chôn chân trong chuồng.
Lợi ích kinh tế của bò ta truyền thống
Sau gần 10 năm nuôi nhiều loại bò, anh Trong đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm. Mỗi loại bò có ưu điểm riêng, nhưng anh chọn nuôi bò ta truyền thống vì dễ nuôi, ít bệnh. Đặc biệt, khi nuôi số lượng lớn và có điều kiện chăn thả, bò ta truyền thống tốt hơn các loại bò lai như 3B, Sind vì ít bệnh và dễ nuôi.
Một con bò lai có thể mang lại giá trị kinh tế gấp đôi bò ta, nhưng cần áp dụng kỹ thuật cao, quy trình chăm sóc phức tạp và chi phí đầu tư thức ăn cao hơn. Bò lai cũng dễ mắc bệnh, trong khi bò ta ít bệnh, dễ nuôi, quy trình chăm sóc đơn giản và chi phí đầu tư vừa phải.
Anh Trong tự hào cho biết, trong số 18 con bò cái của anh, có 14 con đang mang bầu. Trong thời gian từ nay đến tết, anh sẽ có 9-10 con đẻ, và thêm 4 con cái mang bầu. Nghĩa là tổng số con bò của anh sẽ tăng lên 48 con vào năm sau.
Bò cái thường được bán giống sau 2 tháng rưỡi sau khi sinh, trong khi bò đực bán thành phẩm sau 8-10 tháng. Giá bàn cho mỗi con bò đực là khoảng 20 triệu đồng. Mỗi năm, anh Trong xuất trung bình từ 10-15 con.
Ngoài việc bán bò thành phẩm và bò giống, anh Trong còn có nguồn thu từ phân bò. Mỗi năm, anh thu khoảng 50 triệu đồng từ phân bò, tương đương với giá trị nuôi 2,5 con bò trong 10 tháng.
Ghi sổ sách để tránh giao phối cận huyết
Anh Trong được đánh giá là người “mát tay” trong việc nuôi bò đực cung cấp giống cho cả vùng khi đã nuôi con bò đực lần thứ 2. Con bò đực của anh không chỉ mập, cơ bắp cuồn cuộn mà còn cao ngang đầu ông chủ. Con bò giống nặng khoảng 800kg.
Anh Trong cho biết, mỗi lần anh bước vào chuồng và gọi tên con bò, nó hiểu và chuẩn bị sẵn sàng đi “làm việc”. Mỗi lần “hành sự”, nó mang về cho anh 300.000 đồng. Anh Trong hỗ trợ bà con nuôi bò bằng giá rẻ so với mức giá thị trường.
Theo anh Trong, con bò đực này phối giống khoảng hơn 100 lần mỗi năm, thu nhập tương đương với 1,5 con bò trưởng thành.
Tuy nhiên, anh Trong chia sẻ rằng nuôi bò đực không phải ai cũng thành công. Có người nuôi bò giống nhưng không biết cách làm, có con bò quá dữ không ai dám đến gần, và có con nhảy nhiều lần mà con cái không đậu thai. Riêng anh Trong có duyên với bò đực, cho ra đời con bò đực thứ 2 giống như con trước, không chỉ khỏe mà còn hiền.
Một điều quan trọng khi nuôi bò đực phối giống là nắm danh sách “gia phả” những đàn bò cái trong vùng, để tránh giao phối cận huyết. Nếu không biết và giao phối cận huyết, con bò con có nguy cơ bị quái thai hoặc chết yểu. Con bò con cũng dễ bị bệnh và khó thích nghi với môi trường sống.
Anh Trong ghi nhật ký để tránh giao phối cận huyết, và cũng dựa vào quen biết giữa các đàn bò trong làng, xã để phòng ngừa. Con bò đực của anh sẽ được thay trong khoảng 1 năm nữa để tránh giao phối cận huyết và bò già.
Theo anh Trong, việc mở rộng chuồng trại và tăng đàn là mong muốn của anh để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, vốn hiện tại hạn chế, và anh Trong hy vọng nhận được sự hỗ trợ từ các cấp chính quyền và hội nông dân để đầu tư mở rộng chuồng trại.
Anh Lê Văn Huyên, Chủ tịch Hội Nông dân xã Tân Hiệp cho biết, hội đã tham mưu và xây dựng được nhiều mô hình kinh tế hiệu quả. Mô hình Tổ hợp tác chăn nuôi bò là một ví dụ, gồm 8 thành viên và tổng số bò khoảng 40 con. Các thành viên đã tiếp cận nguồn vốn quỹ hỗ trợ nông dân tỉnh và nguồn vốn ngân hàng xã hội. Đến hiện tại, số bò còn lại trong tổ hợp tác khoảng 150 con, và bình quân thu nhập đạt 100 triệu đồng/năm.